Lễ hội cúng của đồng bào dân tộc thiểu số là nét văn hóa độc đáo, phản ánh đời sống tinh thần phong phú, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa con người với thiên nhiên và tổ tiên.
Nằm nép mình trên dải đất hẹp nhất Việt Nam, ven biển miền Trung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi tỉnh Quảng Bình là nơi hội tụ của những giá trị văn hóa độc đáo. Với diện tích tự nhiên khiêm tốn chỉ khoảng 3.845 km2 và dân số 45.400 người, trong đó có 27.004 người là đồng bào DTTS, tỉnh Quảng Bình là ngôi nhà chung của hai dân tộc chính: Bru-Vân Kiều và Chứt, cùng với những tộc người nhỏ hơn như Arem, Rục… sinh sống chủ yếu ở các vùng sâu, vùng biên giới. Cuộc sống của họ luôn gắn bó với thiên nhiên khắc nghiệt, điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, nhưng đồng bào DTTS Quảng Bình đã gìn giữ và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống độc đáo, phản ánh khát vọng sinh tồn mãnh liệt và đời sống tinh thần phong phú của mỗi tộc người. Trong đó, những lễ hội cúng cổ truyền mang đậm nét đẹp văn hóa tâm linh, như là minh chứng cho sự kết nối sâu sắc giữa con người với thiên nhiên và cội nguồn. Những nghi lễ độc đáo, những câu chuyện truyền miệng, những điệu múa và âm nhạc truyền thống, tất cả đều góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng và đầy màu sắc của đồng bào DTTS Quảng Bình, một nét đẹp văn hóa đặc sắc của vùng đất miền Trung.
Hội Mừng Cơm Mới – Nét Văn Hóa Độc Đáo Của Người Bru-Vân Kiều
Dân tộc Bru-Vân Kiều tại Quảng Bình, bao gồm 4 nhóm tộc người: Vân Kiều, Khùa, Ma Coong và Trì, cư trú chủ yếu ở các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Minh Hóa và Bố Trạch. Nét văn hóa đặc sắc của đồng bào Bru-Vân Kiều là đời sống văn nghệ dân gian vui tươi, phong phú. Trong số đó, Lễ hội mừng cơm mới là sự kiện quan trọng nhất trong năm, mang ý nghĩa to lớn về văn hóa và tâm linh. Xuất phát từ tín ngưỡng thờ thần lúa, lễ hội này được xem như Tết của đồng bào, là dịp để báo cáo với trời đất, tổ tiên, thổ thần về thành quả mùa màng đã qua, bày tỏ lòng biết ơn các vị thần linh, đặc biệt là thần lúa đã ban tặng mùa màng bội thu. Đồng thời, lễ hội cũng là lời cầu nguyện cho mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hòa, sức khỏe dồi dào cho mọi nhà.
Mùa gặt kết thúc, những cánh đồng lúa chín vàng rực rỡ trên nương rẫy Bru-Vân Kiều, báo hiệu mùa lễ hội mừng cơm mới đã đến. Từng bản làng, từng dòng họ đều nô nức chuẩn bị cho ngày hội trọng đại này. Dù tổ chức vào thời điểm khác nhau tùy điều kiện và vụ mùa, lễ hội vẫn giữ nét chung là sự ấm áp, đoàn kết của cộng đồng. Mỗi gia đình góp phần tạo nên mâm cỗ thịnh soạn, với gà, gạo nếp, rượu… cùng một đĩa cơm nếp mới do chính tay họ làm ra. Cơm nếp than và trắng được nướng trên bếp than hồng, thơm phức. Bên cạnh đó, một bát nước với những bông hoa tre tượng trưng cho bông lúa được dâng lên cúng Giàng. Mâm lễ vật của bản làng còn có thịt bò, dê, hoặc lợn cùng ché rượu cần ủ lâu năm, thể hiện lòng biết ơn trời đất và mong cầu mùa màng bội thu.
Ánh bình minh rạng rỡ chiếu sáng ngày lễ trọng đại. Hai chàng trai tráng kiện khiêng con vật hiến sinh – lợn, bò hay dê – đến trước bàn thờ. Già làng, với vai trò chủ tế, bắt đầu nghi thức thiêng liêng. Sau lời khấn cầu xin sức khỏe dồi dào, mùa màng bội thu từ các vị thần linh và thần lúa, con vật được dâng lên, trở thành lễ vật hiến tế.
Lễ cúng kết thúc, nhường chỗ cho không khí rộn ràng của phần hội. Dân bản cùng quây quần, chén chú chén anh, tiếng cười rôm rả hòa lẫn vào lời ca tiếng hát xa nớt du dương, trầm ấm theo tiếng kèn khui/khalui. Men rượu len lỏi, mang theo những lời chúc mùa màng bội thu, dân bản an vui. Trò chơi dân gian rộn ràng: xà hùa, cháy xà rì, kéo co,… khiến lễ hội thêm phần náo nhiệt. Đây cũng là dịp để bà con họ hàng thăm hỏi, con cháu về thăm gia đình. Theo tập quán, con gái đi lấy chồng xa thường mang gà, cơm về biếu bố mẹ và anh em. Lễ hội khép lại, tình cảm gia đình được vun đắp, những món quà chứa đựng yêu thương được trao đi, trao lại.
Lễ hội mừng cơm mới của đồng bào Bru-Vân Kiều ở Quảng Bình, một nét văn hóa độc đáo được gìn giữ qua nhiều thế hệ, mang giá trị lịch sử và văn hóa đặc sắc. Lễ hội là minh chứng cho bản sắc văn hóa tộc người, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và du khách muốn tìm hiểu, trải nghiệm và khám phá. Nhận thức được tầm quan trọng của lễ hội, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 471/QĐ-BVHTTDL đưa lễ hội mừng cơm mới vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng.
Hành trình tâm linh: Lễ cúng thần rừng của người Mã Liềng
Nằm trong cộng đồng các tộc người Chứt như Sách, Mày, Rục, A Rem, người Mã Liềng sinh sống chủ yếu ở hai xã Lâm Hóa, Thanh Hóa (huyện Tuyên Hóa) và một phần ở xã Trọng Hóa (huyện Minh Hóa). Cuộc sống gắn bó với những cánh rừng Trường Sơn đã hun đúc trong họ niềm tin vào các vị thần núi rừng, thần đá, thần đất, thần rừng, thần lúa, những linh hồn như cumuych pếp, cumuych brú… Mong muốn mùa màng bội thu, săn bắn thuận lợi đã khiến tín ngưỡng thờ cúng các vị thần này trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống người Mã Liềng. Trong đó, thần rừng là vị thần bảo hộ quan trọng, được tôn kính và cúng tế nhằm cầu mong mưa thuận gió hòa, săn bắt, hái lượm suôn sẻ, mang lại cuộc sống bình yên, no ấm cho bản làng. Lễ cúng thần rừng là dịp để con người bày tỏ lòng biết ơn đối với những vị thần đã che chở, phù hộ cho cuộc sống của họ.
Truyền thống cúng thần rừng của người Mã Liềng xưa kia gắn liền với vòng xoay sản xuất nông nghiệp. Lễ cúng được tổ chức vào dịp lễ Klốplô (lấp lỗ) sau khi trỉa lúa, khoảng ngày 7/7, hoặc lễ Chăm ba bói (cúng cơm mới) vào ngày 10/10, đánh dấu kết thúc một chu kỳ canh tác và bày tỏ lòng biết ơn thần linh. Ngày nay, cùng với sự thay đổi trong đời sống, lễ cúng thần rừng được tổ chức vào dịp Tết Nguyên đán, Quốc khánh 2/9 và sau khi hoàn thành việc gieo cấy vụ đông – xuân và thu hoạch vụ hè – thu. Đây là nét đẹp văn hóa độc đáo, thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa người Mã Liềng với thiên nhiên và thần linh.
Lễ hội sẽ diễn ra phía sau bản làng, với những mâm cúng được dân làng chuẩn bị theo khả năng và nhu cầu. Các mâm cúng sẽ được đặt trước rừng để thầy cúng làm lễ. Trước khi tham gia lễ hội, mỗi gia đình cần thực hiện nghi lễ cúng tổ tiên tại nhà.
Người Mã Liềng tin tưởng vào sự kết nối với thần linh thông qua nghi lễ độc đáo, sử dụng cây nến sáp ong thay cho vàng mã. Lễ vật đơn giản, chỉ gồm những thức ăn quen thuộc như xôi, cơm, rượu, thịt, cá, gà luộc, thể hiện sự tôn kính chân thành. Thầy cúng sử dụng hai miếng gỗ tre ném vào dao để xin keo, thông qua đó xác định sự đồng ý hay phản đối của thần linh. Lễ cúng thần rừng diễn ra từ 9 đến 10 giờ sáng, sau đó cộng đồng Mã Liềng quây quần tại nhà sinh hoạt chung hoặc nhà trưởng làng, cùng thưởng thức bữa ăn và vui chơi, tạo nên không khí ấm cúng, gần gũi.
Lễ cúng thần rừng của người Mã Liềng không chỉ là nghi thức tâm linh thể hiện lòng biết ơn đối với thần linh, trời đất, tổ tiên, mà còn là lời khẳng định ý thức bảo vệ rừng và sống hòa hợp với thiên nhiên của họ. Họ tin rằng, việc giữ gìn rừng xanh là cách duy trì sự thịnh vượng và an lành cho cộng đồng. Đồng thời, lễ cúng cũng là dịp để thắt chặt tình đoàn kết, gắn bó giữa người dân trong bản, tạo nên một không khí vui tươi, đầm ấm.
Hội Trỉa Lúa – Di sản Văn hóa độc đáo của người Bru-Vân Kiều
Lễ hội trỉa lúa, hay còn gọi là lễ lấp lỗ, của người Bru-Vân Kiều là lễ hội quan trọng diễn ra vào giữa tháng 7 (âm lịch). Nghi lễ này mang ý nghĩa cầu mong thần linh phù hộ cho hạt giống sinh sôi nảy nở, chắc hạt nặng bông, mùa màng bội thu trước khi người dân đem hạt giống cất giữ hàng năm ra gieo xuống đất. Lễ hội thể hiện đời sống tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng đặc sắc của người Bru-Vân Kiều.
Lễ hội truyền thống là dịp để người dân bản làng bày tỏ lòng thành kính với thần linh. Mỗi gia đình mang theo một gùi thóc lúa, tượng trưng cho sự no ấm, phồn thịnh. Trai bản khiêng con lợn trắng, biểu trưng cho sự hiến tế và mong ước về sự thịnh vượng. Khi lễ hội bắt đầu, mọi người tập trung tại khám thờ, nơi linh thiêng thờ cúng các vị thần cai quản đất đai, cây cỏ và con người. Già làng, với vai trò là người đại diện, cầm ly rượu, dâng lời khấn vái tha thiết, cầu xin thần linh ban phước lành, sức khỏe, may mắn và mùa màng bội thu cho dân bản.
Lễ hội cúng tế được diễn ra trang trọng với con lợn được giết mổ làm lễ vật. Già làng, cùng các vị cao niên, thực hiện nghi thức gieo hạt đầy thành kính. Già làng, tay cầm nia đựng hạt giống, nhún nhảy theo điệu khấn vái, cầu xin thần lúa ban phước lành cho dân bản mùa màng bội thu. Sau phần lễ, không khí rộn ràng tưng bừng với những mâm cỗ thịnh soạn. Dân bản cùng nhau vui vẻ ăn uống, trò chuyện, hòa mình vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ và những trò chơi dân gian truyền thống độc đáo.
Lễ hội Trỉa lúa là nét văn hóa đặc sắc, thể hiện tinh thần cộng đồng và lòng biết ơn đối với thiên nhiên của đồng bào Bru – Vân Kiều. Ngày 3/2/2021, lễ hội này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, khẳng định giá trị to lớn của văn hóa truyền thống của người Bru – Vân Kiều.

Lễ hội trỉa lúa, vòng tròn đoàn kết.
Lễ hội trống vang trời của người Ma Coong – Nét độc đáo văn hóa Tây Nguyên
Người Ma Coong, cư dân bản địa của dãy Trường Sơn, tập trung sinh sống chủ yếu ở xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Một số ít người Ma Coong còn sinh sống xen kẽ với người A Rem ở xã Tân Trạch, cùng huyện. Qua nhiều thế hệ, người Ma Coong gìn giữ những phong tục tập quán, tín ngưỡng độc đáo, trong đó Lễ hội đập trống là lễ hội trọng đại nhất trong năm.
Lễ hội đập trống của người Ma Coong, được tổ chức vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch hàng năm, là một lễ hội trọng đại, bắt nguồn từ truyền thuyết về việc dùng tiếng trống xua đuổi con khỉ ác khỏi bản làng. Lễ hội không chỉ thể hiện lòng thành kính đối với thần linh, tưởng nhớ tổ tiên, mà còn cầu mong năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân bản ấm no.
Lễ hội của người Ma Coong là một sự kiện trọng đại, được chuẩn bị chu đáo trong hàng tháng trời. Cả bản làng cùng nhau làm trống từ cây chi-cúp, mặt trống được bịt da bò hoặc da trâu, dùi trống được làm từ mây rừng. Họ cũng đan lồng gà, chuẩn bị lễ vật cúng Giàng gồm rượu cần, gà, cá, xôi, ngọn mây và khúc thân cây đoác. Để có cá cúng Giàng, người Ma Coong đã ngăn đập trên suối Aky từ tháng 5 âm lịch. Khi lễ hội diễn ra, già làng là người đầu tiên được phép xuống khu vực cấm để thả lưới bắt cá, sau đó mới đến lượt dân bản.
Trăng tròn sáng rực trên đỉnh núi cao, soi rọi xuống bản làng đang rộn ràng lễ hội. Già làng đứng trang nghiêm, cúng Giàng và tổ tiên, cầu mong mưa thuận gió hòa, dân bản an khang thịnh vượng. Tiếng khấn nguyện vang vọng, hòa quyện với tiếng trống rộn ràng báo hiệu lễ hội chính thức bắt đầu. Sau lời khấn của già làng, các thành viên ban chủ lễ lần lượt cầu khấn, nguyện vọng về một năm mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no.
Không khí lễ hội tưng bừng, tiếng cười nói rộn rã hòa cùng tiếng trống rền vang. Bà con dân bản, du khách cùng nhau nâng chén rượu mừng mùa trăng mới. Khi mặt trống vỡ tan, men say tỏa khắp, những đôi trai gái yêu nhau có thể tự do tìm đến nhau, hẹn hò dưới ánh trăng lung linh. Lễ hội đập trống như một lời khẳng định tinh thần đoàn kết, một lời cầu chúc tốt đẹp cho một năm mới đầy hy vọng.
Lễ hội đập trống, một nét văn hóa đặc sắc của người Ma Coong ở xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, là dịp để họ thể hiện lòng thành kính và cầu nguyện cho thần linh. Được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ năm 2019, lễ hội thu hút sự tham gia của đông đảo người dân địa phương, họ diện trang phục truyền thống, tham gia các nghi lễ độc đáo. Không chỉ mang ý nghĩa văn hóa tâm linh sâu sắc, lễ hội đập trống Ma Coong còn là điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng.

Trai làng khỏe mạnh hội tụ, tiếng trống vang.
Nghi lễ cầu an, cầu mưa độc đáo của người Rục – nét đẹp văn hóa truyền thống
Tộc người Rục, một minh chứng sống động cho sự đa dạng văn hóa của Việt Nam, là một trong số ít những cư dân tiền Việt-Mường còn sót lại. Được bộ đội phát hiện vào năm 1959, họ sống ẩn mình trong rừng sâu, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Cuộc sống hoang sơ, biệt lập của người Rục đã thay đổi khi họ rời hang đá để hòa nhập với cộng đồng vào năm 1959. Tuy nhiên, dù đã trải qua gần 65 năm, nỗi nhớ rừng sâu vẫn âm ỉ trong tâm hồn họ, thể hiện qua những lần bỏ nhà về lại với thiên nhiên hoang dã. Nhờ sự nỗ lực của chính quyền, đặc biệt là lực lượng biên phòng, cùng với sự giúp đỡ của các dân tộc anh em, người Rục dần thích nghi với cuộc sống định cư, học hỏi những kỹ năng mới như trồng lúa nước, làm nương rẫy. Hiện nay, họ sinh sống ở các bản Ón, Yên Hợp, Mò O Ồ Ồ thuộc xã Thượng Hóa (huyện Minh Hóa). Sự hiện diện của điện thoại, xe máy và ánh sáng điện trên bản làng đã giúp người Rục ngày càng hòa nhập với cộng đồng, góp phần xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
Người Rục, trước khi rời hang đá, vẫn giữ nhiều nét sinh hoạt cổ xưa, tách biệt với thế giới bên ngoài. Họ tin vào thần linh, theo tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh, dù chưa rõ ràng và cụ thể như các tộc người thuộc nhóm Mường. Trong hệ thống quan niệm của người Rục, thần núi (Cu lôông) đóng vai trò quan trọng, chi phối mọi sinh hoạt, nhất là canh tác nương rẫy. Trước đây, mỗi vụ mùa của người Rục đều trải qua nhiều nghi lễ cúng bái và kiêng cữ, từ khâu tìm đất đến trồng trỉa, thu hoạch. Trước khi gieo hạt, họ cúng tạ ơn thần bản thổ và cầu xin các vị thần phù hộ. Lễ xuống giống (Kalcống) được tổ chức để cầu xin thần linh ban mưa, bảo vệ mùa màng khỏi thú rừng phá hoại, chuột ăn phá.
Nghi lễ cầu an, cầu mưa của đồng bào Rục, theo lời kể của những người già trong bản, đã có từ lâu đời, thường được tổ chức bên những khe suối. Do quá trình di cư và những khó khăn, nghi lễ này đã bị gián đoạn trong một thời gian dài, cho đến khi được nối lại cách đây khoảng một thập kỷ. Hiện nay, lễ cầu an được tổ chức tại nhà văn hóa cộng đồng của bản. Các vị trưởng bản đảm nhận vai trò chủ lễ. Người cúng chính trong buổi lễ là một người cao tuổi, có uy tín được người dân trong bản bầu chọn. Đặc trưng của lễ cầu an là bếp lửa được nhen lên từ chiều hôm trước và duy trì đỏ lửa cho đến khi lễ kết thúc. Trước đó vài ngày, các thanh niên trong bản được phân công vào rừng lấy củi, phụ nữ thì đi hái bắp chuối, rau rừng.
Cộng đồng trong bản chung tay góp sức cho lễ cầu an bằng cách đóng góp một con lợn cùng rượu đoác, nếp, gạo,… Bên cạnh đó, những bậc cao niên giàu kinh nghiệm và uy tín sẽ vào rừng tìm kiếm 7 viên đá lèn đặc biệt và một bó lá rừng được người dân địa phương gọi là tri ang cà panh hoặc xà là. Trước khi lễ cầu an chính thức diễn ra, 7 viên đá lèn được làm sạch, nung đỏ và thả vào các chậu nước chứa lá tri ang cà panh. Theo truyền thống, nước này được dùng để tẩy uế cơ thể trước khi cầu an, thể hiện lòng thành kính và mong muốn được thần linh phù hộ. Sau đó, nghi lễ cầu khấn được tiến hành trang trọng, khẩn thiết với mong muốn cầu an, cầu phúc cho bản làng.

Kết nối với Rục mùa nước lũ.
Văn hóa độc đáo trong những nghi lễ cúng truyền thống
Quảng Bình, vùng đất sơn thủy hữu tình, không chỉ sở hữu vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên mà còn là nơi lưu giữ những nét văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Những nghi lễ, lễ hội cúng đặc biệt của đồng bào DTTS ở Quảng Bình là minh chứng sống động cho lòng tôn kính và biết ơn của cư dân bản địa đối với thiên nhiên và thần linh.
Du khách khi đến với Quảng Bình sẽ được hòa mình vào không gian giao lưu văn hóa độc đáo, được chiêm ngưỡng những nghi lễ truyền thống linh thiêng, thấm nhuần tinh thần nhân văn và cộng đồng của đồng bào DTTS sinh sống giữa rừng đại ngàn phía tây tỉnh. Trang phục rực rỡ, phong tục tập quán độc đáo, sinh hoạt diễn xướng dân gian và những món ăn đặc sắc của địa phương là những trải nghiệm khó quên dành cho du khách.
Mùa đẹp nhất để khám phá những lễ hội của đồng bào DTTS Quảng Bình thường là từ tháng 4 đến tháng 10 hằng năm. Tuy nhiên, do đồng bào DTTS chủ yếu sinh sống ở vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa, việc tiếp cận địa điểm tổ chức lễ hội có thể gặp đôi chút khó khăn. May mắn thay, Quảng Bình đang nỗ lực phát triển các tour, tuyến du lịch và sản phẩm du lịch cộng đồng, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của đồng bào DTTS trên địa bàn.
Chuyến hành trình khám phá văn hóa đồng bào DTTS Quảng Bình sẽ là cơ hội để du khách tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số, đồng thời góp phần nâng cao đời sống kinh tế và bảo tồn văn hóa truyền thống của người dân địa phương.
Quảng Bình, vùng đất được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho vẻ đẹp hoang sơ hùng vĩ và nét văn hóa độc đáo, chào đón du khách với hành trình khám phá lễ hội truyền thống của các dân tộc bản địa. Từ lễ hội mừng cơm mới của người Bru – Vân Kiều tại xã Ngân Thủy (Lệ Thủy), nơi du khách hòa mình vào không khí rộn ràng, tìm hiểu về đời sống văn hóa độc đáo của người dân bản địa, đến lễ hội trỉa lúa của đồng bào Bru-Vân Kiều xã Trường Sơn (huyện Quảng Ninh) với những điệu múa truyền thống và những câu chuyện về lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Hành trình khám phá Quảng Bình còn đưa du khách đến với những điểm đến hấp dẫn khác. Hang Chà Lòi với vẻ đẹp bí ẩn, hang Sơn Nữ thơ mộng, hay các di tích lịch sử trên cung đường 20 Quyết Thắng đều là những điểm nhấn thu hút du khách. Khám phá vẻ đẹp kỳ vĩ của hệ thống núi đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng, một di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những kỳ quan thiên nhiên độc đáo.
Tiếp tục hành trình, du khách sẽ được trải nghiệm nét văn hóa độc đáo của người Mã Liềng tại các xã Trọng Hóa, Lâm Hóa, Thanh Hóa. Nơi đây, du khách có thể tham quan Khu di tích lịch sử quốc gia đường Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của thác Bụt với huyền tích hội rằm tháng Ba, và đặc biệt là Khu di tích lịch sử quốc gia hang Lèn Hà – nơi ghi dấu sự hy sinh oanh liệt của các chiến sĩ Trạm Thông tin A69.
Để chuyến hành trình khám phá văn hóa của các dân tộc bản địa được trọn vẹn, du khách nên lưu ý đến trang phục lịch sự, kín đáo, giữ gìn vệ sinh chung, không gây ồn ào, mất trật tự, tôn trọng phong tục, tập quán, kiêng cữ, những điều cấm kỵ của người dân bản địa.